Triệu Lương Đống

Triệu Lương Đống
Tên chữKình Vũ
Tên hiệuTây Hoa
Thụy hiệuTương Trung
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
1621
Quê quán
châu trực lệ Tuy Đức
Mất
Thụy hiệu
Tương Trung
Ngày mất
1697
Giới tínhnam
Gia quyến
Hậu duệ
Triệu Hoằng Xán
Chức quanTổng đốc Vân Quý
Nghề nghiệpchính khách
Quốc tịchnhà Thanh
[sửa trên Wikidata]x • t • s

Triệu Lương Đống (chữ Hán: 趙良棟, 1621 – 1697), tự Kình Chi hay Kình Vũ, hiệu Tây Hoa, người Ninh Hạ, Cam Túc [1], tướng lãnh nhà Thanh, có công dẹp loạn Tam Phiên, được sử sách liệt vào "Hà Tây tứ tướng", còn lại là Trương Dũng, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc.

Tham gia quân đội

Tổ tiên sống ở Du Lâm Vệ, Thiểm Tây. Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), quân Thanh bình định Thiểm Tây, Lương Đống tòng quân, ở dưới quyền Tổng đốc Mạnh Kiều Phương, được nhiệm chức Đồng Quan thủ bị. Theo quân đi đánh Tần Châu, Củng Xương, đánh bại nghĩa quân của Hạ Trân, Vũ Đại Định. Được thụ chức Ninh Hạ thủy lợi đồn điền đô tư.

Năm thứ 5 (1648), dẹp người Hồi ở Hà Tây, bắt Đinh Quốc Đống. Lương Đống ở giữa đường được thăng làm Cao Đài Du kích.

Năm thứ 13 (1656), được Kinh lược Hồng Thừa Trù tiến cử, tòng chinh Vân, Quý, thụ chức Đốc tiêu Trung quân Phó tướng.

Năm Khang Hi nguyên niên (1662), được thăng làm Quảng La Tổng binh thuộc tỉnh Vân Nam. Trước sau đánh dẹp người Miêu các nơi Mã Nãi, Lũng Nạp, Thủy Tây.

Năm thứ 4 (1665), dời đi trấn thủ Bình Viễn thuộc Quý Châu, gặp tang cha, Ngô Tam Quế cho rằng Thủy Tây chưa yên, giữ lại để sai khiến. Lương Đống từ chối, cương quyết kháng lệnh, đồng liêu phải xin giúp, mới được về chịu tang.

Năm thứ 8 (1669), được khởi dụng chức Đại Đồng Tổng binh thuộc tỉnh Sơn Tây.

Năm thứ 11 (1672), dời đi trấn thủ Thiên Tân thuộc tỉnh Trực Lệ.

Dẹp loạn Tam phiên

Ổn định Ninh Hạ

Năm thứ 12 (1673), Ngô Tam Quế phản. Năm thứ 13 (1674), Ninh Hạ có binh biến, Đề đốc Trần Phúc bị hại. Cam Túc Đề đốc Trương Dũng tiến cử Lương Đống, ông được thăng làm Ninh Hạ Đề đốc.

Vào triều, tâu về việc xử trí loạn binh, xin chém kẻ cầm đầu, tha cho những kẻ bị bức bách tham gia, triều đình đồng ý. Lương Đống xin để vợ con ở lại kinh sư, được ban cho nhà cửa.

Kén trăm tinh binh đi gấp đến nhiệm sở, tuyên thượng dụ úy lạo. Giết kẻ xướng loạn là Bả tổng Lưu Đức, bắt đồng mưu là Tham tướng Hùng Hổ, những kẻ giết Trần Phúc là Doanh binh Diêm Quốc Hiền, Trần Tiến Trung. Rồi chia quân phòng ngự các nơi, phân tán đồng đảng những kẻ làm loạn, xin ý chỉ để chém bọn Hùng Hổ.

Tòng chinh Xuyên, Điền

Thu phục Thành Đô

Khi ấy Đại tướng quân Đồ Hải đốc quân đi Bình Lương, đánh Vương Phụ Thần, Lương Đống cùng Bình Lương Đề đốc Vương Tiến Bảo đều chịu sự chỉ huy của ông ta, chia quân bình định Tần Châu, Tây Hòa, Lễ (huyện). Năm thứ 18 (1679), ông dâng sớ đi đưa quân Ninh Hạ tham gia tiến đánh Xuyên (Tứ Xuyên), Điền (Vân Nam), triều đình đồng ý, cho ở dưới trướng Đồ Hải. Đồ Hải bàn trước hãy lũy địch ở các nơi Sạn Đạo, Ích Môn Trấn, chia 4 đường tiến đánh; còn Lương Châu Đề đốc Tôn Tư Khắc dâng sớ xin hoãn ra quân, có chỉ trách cứ. Vào ngày hẹn tháng 10, Lương Đống đem quân bản bộ đến huyện Huy. Quân Thanh tiến phá Mật Thụ Quan, điều binh tập kích Hoàng Chử Quan nhằm chia sức địch; đôi bên đại chiến, phá được quân phiên, chiếm huyện Huy. Tư Khắc ra Lược Dương, thẳng đến Giai Châu. Quân Lương Đống từ huyện Huy tiến hạ Lược Dương, tướng phiên là Ngô Chi Mậu thua chạy. Ông lại tiến lấy Dương Bình Quan, thu hàng huyện Miện. Vương Tiến Bảo đi huyện Phượng để đánh Hán Trung, Lương Đống cùng ông ta hội quân ở Ninh Khương, rồi cho báo tiệp. Được thụ hiệu Dũng Lược Tướng quân, vẫn lĩnh Ninh Hạ Đề đốc.

Năm thứ 19 (1680), Lương Đống cùng Tiến Bảo chia đường tiến đến Bạch Thủy Bá, quân phiên bày trận ở Giáp Giang, nước sông lên cao, không có thuyền, địch lại bắn tên như mưa. Lương Đống đi đầu, lệnh cho chém kẻ nào thoái lui. Ông mặc giáp, thúc ngựa xuống nước mà vượt sông, quân Thanh đi theo, địch phát pháo, mấy chục người bị thương, không ai quay đầu. Quân phiên luống cuống bỏ chạy, quân Thanh đuổi thẳng đến Thanh Xuyên, đánh bại địch ở Thạch Hạp Câu, lại đánh bại địch ở Thanh Thiến Sơn, hạ Long An Phủ, vượt Minh Nguyệt Giang, đi qua Miên Trúc. Quân phiên tan rã, Tuần phủ phiên là Trương Văn Đức cùng tướng phiên là bọn Uông Văn Nguyên đều hàng, nên giành lại Thành Đô, từ lúc ra quân đến nay chỉ mới 10 ngày. Triều đình khen ngợi công lao của Lương Đống, thăng làm Vân Quý Tổng đốc, gia Binh bộ Thượng thư, vẫn lĩnh Tướng quân. Ông nghĩ mình đang là người của Ninh Hạ, nếu nhận việc ở Vân – Quý sẽ không thể tiếp tục tòng chinh, nên dâng sớ từ chối chức Tổng đốc, triều đình không cho. Các đại thần bàn Ninh Hạ chỉ nên đặt chức Tổng binh, triều đình lập tức cho con của Lương Đống là Triệu Hoằng Xán được ấm chức ấy, vẫn tiếp tục tòng chinh.

Để mất Kiến Xương

Khi ấy Vương Tiến Bảo cũng hạ Bảo Ninh, cùng bọn Kiến Uy Tướng quân Ngô Đan thu hàng Thuận Khánh, Trùng Khánh, Tuân Nghĩa, đều xong. Lương Đống chia bọn du kích Dã Quốc Dụng ở phía Tây thu hàng Nhã Châu, giành lại các vệ Tượng Lĩnh, Kiến Xương; ở phía đông lấy Tự Châu, bình định các huyện Nạp Khê, Vĩnh Ninh.

Dâng sớ xin gọi các quan viên ở Thiểm Tây, Tứ Xuyên bàn bạc việc lương hướng. Quân Thanh từ Tứ Xuyên chia đường: 1 từ Bảo Ninh ra Vĩnh Ninh, đến Triêm Ích; 1 từ Thành Đô ra Kiến Xương, đến Vũ Định, cùng tiến xuống Vân Nam. Triều đình đồng ý với lời tâu của ông, sau đó đề nghị Ngô Đan ra Vĩnh Ninh, Lương Đống ra Kiến Xương.

Ngô Thế Phiên sai bộ tướng là bọn Hồ Quốc Trụ, Hạ Quốc Tướng đánh chiếm Vĩnh Ninh, xâm phạm Lư Châu, Tự Châu, tụ quân uy hiếp Kiến Xương. Lương Đống gọi Tổng binh Chu Y Khách đưa 8000 quân đi giúp Kiến Xương, Chu Y Khách đánh không thắng, lui về Nhã Châu. Quân giữ Kiến Xương hết lương, bỏ thành mà chạy. Ông hặc Ngô Đan nắm binh không tiến, để Vĩnh Ninh rơi vào tay giặc, cùng việc Chu Y Khách lui quân, có chiếu lệnh Ngô Đan giao quân đội cho Phật Ni Liệt, bắt Chu Y Khách đến Hình bộ.

Thu phục Kiến Xương

Năm thứ 20 (1681), Lương Đống soái quân đến Triều Thiên Quan, sai Hoằng Xán ra Mã Hồ quấy nhiễu phía sau địch, giao chiến ở Phượng Hoàng Thôn, tái chiến ở Quan Âm Nhai. Quân phiên giữ nhai, Hoằng Xán đốc quân trèo lên tập kích phía sau, giết 300, bắt hơn 80 tên địch. Hoằng Xán lệnh cho bọn Tổng binh Lý Phương Thuật, Thiên Đồ đuổi đến Hoàng Mao Cương, quân phiên chia 3 đường chống lại, Hoằng Xán cũng chia quân ứng chiến, từ sáng đến chiều, quân Thanh đại thắng, chém tướng phiên Thẩm Minh, Trương Văn Tường, bọn Quốc Trụ bỏ trốn.

Quân Thành giành lại Lư Châu, Tự Châu, rồi hạ được Vĩnh Ninh, thu hàng Vinh Kinh. Lương Đống cùng Hoằng Xán hội quân ở Giáp Giang, hạ Nhã Châu, tiến lấy Kiến Xương. Vượt Kim Sa Giang, đến Vũ Định.

Thu phục Côn Minh

Đại tướng quân Bối tử Chương Thái thống lãnh 40 vạn quân Mãn, Hán các lộ Hồ Quảng, Quảng Tây tiến xuống Vân Nam, đánh tỉnh thành Vân Nam (tức Côn Minh), đóng đồn từ chùa Quy Hóa ở phía đông thành, cho đến Bích Kê Quan ở phía tây, kéo dài 40 dặm, ngay trước hồ Côn Minh, trong hồ không bày quân. Ngô Thế Phiên thu tàn quân cố thủ, nhờ đường thủy vận lương, giằng co mấy tháng không có kết quả.

Tháng 9, Lương Đống đến hội quân, xem xong doanh lũy, xin Chương Thái đánh gấp, vì giằng co lâu ngày, đại quân sẽ cạn lương. Chương Thái cho rằng không nên khinh suất, vả quân của Lương Đống vừa đến, cần được nghỉ ngơi. Ông không nghe, đưa quân bản bộ trong đêm đánh Nam Bá, phá lũy đoạt cầu, rồi xông vào thành. Chương Thái cho rằng quân Lương Đống đã mệt, nên tạm lui, để Tổng đốc Thái Dục Vinh thay thế, ông nói: "Quân ta liều chết lấy được đất này, sao lại nhường cho người ta chiếm mất?" Vì thế Chương Thái lệnh cho các cánh quân cùng tiến, quân phiên ra thành, giao chiến ở chùa Quế Hoa (tức chùa Quy Hóa), quân Thanh đều hăng hái xông lên, quân phiên đại bại, Ngô Thế Phiên bèn tự sát, tàn dư dâng thành đầu hàng. Dẹp xong loạn Tam Phiên.

Từ khi Ngô Tam Quế giữ Vân Nam, đến khi Thế Phiên đã tải nhiều năm, tích trữ một lượng tài sản rất lớn. Thành phá, các tương tranh nhau chiếm đoạt, chỉ có Lương Đống không lấy gì, còn nghiêm cấm bộ hạ không được tơ hào đến.

Luận tội Kiến Xương

Chu Y Khách bị bắt ở Hình bộ, dâng sớ biện bạch rằng Lương Đống giao ít quân, lại không có tiếp ứng, nên phải lui về. Vương Tiến Bảo cũng dâng sớ nói để mất Kiến Xương là tội của Lương Đống. Ông lại dâng sớ hặc Y Khách giảo biện dối trá, đổ lỗi Tiến Bảo. Triều đình cho rằng quân tình cấp bách, tạm chưa xét đến.

Vân Nam đã yên, triệu Lương Đống về kinh sư, Tiến Bảo cũng vào triều, truyền dụ bỏ qua những gì 2 người công kích nhau, nhưng vẫn luận tội để mất Kiến Xương. Các đại thần bàn rằng Chu Y Khách đáng chém, Ngô Đan tước quan tịch, Lương Đống tước quan. Đế cho Chu Y Khách miễn chết làm nô, Ngô Đan tước quan, Lương Đống đổi thụ Loan nghi sứ.

Cuối đời ấm ức

Năm thứ 22 (1683), Lương Đống dâng sớ trình bày chiến công, xin xét lại, các đại thần bàn rằng Lương Đống để mất Kiến Xương, lấy công chuộc tội; còn các tướng sĩ tòng chinh Hoằng Xán, Phương Thuật, Thiên Đồ đều gia hàm Tả Đô đốc. Ông xin nghỉ bệnh.

Năm thứ 25 (1686), triều đình niệm tình Lương Đống lấy Vân Nam, liêm khiết giữ pháp kỷ, phục nguyên hàm Tướng quân, Tổng đốc.

Năm thứ 27 (1688), vào triều, lại trình bày chiến công, triều đình lệnh cho về làng viết lại bản tấu cho đầy đủ.

Năm thứ 28 (1689), thụ thế chức Bái Tha Lạt Bố Lặc Cáp Phiên (tên Hán là Kỵ đô úy).

Năm thứ 30 (1691), Cát Nhĩ Đan quấy nhiễu biên cương, triều đình mệnh bọn Tây An Tướng quân Ni Nhã Hàn ra phòng ngự Ninh Hạ, đem việc quân hỏi Lương Đống.

Năm thứ 32 (1693), triều đình lấy Ninh Hạ Tổng binh Phùng Đức Xương đi Cam Châu, mệnh Lương Đống tạm lĩnh trấn binh. Ông hặc Đức Xương cắt giảm quân lương, Đức Xương bị bãi chức.

Năm thứ 33 (1694), triều đình mệnh Lương Đống soái quân đóng ở trú Thổ Lạt chống lại Cát Nhĩ Đan, được gọi về kinh sư.

Năm thứ 34 (1695), Lương Đống dâng sớ trình bày chiến công bị Đại tướng quân Đồ Hải, Chương Thái chèn ép, Đại học sĩ Nạp Lan Minh Châu lấp liếm, Đế trách ông nhỏ mọn, trả lại sớ, vẫn ban sắc vỗ về, cho thụ tước Nhất đẳng Tinh Kỳ Ni Cáp Phiên (tên Hán là Tử tước). Lương Đống đòi ở lại kinh sư, xin nhà cửa. Ngự sử Cung Tường Lân hặc ông kiêu ngạo buông thả, Đế tha cho, ban 2000 lạng bạc, lệnh về làng.

Cái chết

Năm thứ 36 (1697), Lương Đống bệnh, Thượng thư Mã Tề từ Ninh Hạ về triều, tâu lên, có chiếu thăm hỏi, ban nhân sâm, đuôi hươu. Ít lâu sau thì mất, hưởng thọ 77 tuổi. Đế thân chinh Cát Nhĩ Đan, đến Du Lâm, truyền dụ rằng Lương Đống tính thô lậu, lòng hẹp hòi nên kém hòa hợp với mọi người, mắc nhiều lỗi lầm, nhưng niệm công tích của ông, nay lại đã mất, cho dời vợ con về nguyên quán, để sinh hoạt được yên ổn. Xa giá đến Ninh Hạ, mệnh cho Hoàng trưởng tử Dận Thì viếng tang, ban lễ Tế táng, thụy là Tương Trung.

Năm Càn Long thứ 47 (1782), xét công giành lại Tứ Xuyên, Vân Nam, cho rằng Lương Đống là cao nhất, được tiến tước Nhất đẳng Bá, thế tập võng thế (tức là đời đời không bị giáng phong).

Tham khảo

Chú thích

  • x
  • t
  • s
Vương công Đại thần Nhà Thanh được thờ trong Hiền lương từ
Tiền điện
Hậu tẩm
  • Đạt Hải Văn Thành
  • Mạnh Kiều Phương Trung Nghị
  • Lý Quốc Hàn Mẫn Tráng
  • Ngạch Sắc Hắc Văn Khác
  • Cáp Thập Truân Khác Hi
  • Chử Khố Tương Tráng
  • Diêu Văn Nhiên Đoan Khác
  • Mãng Y Đồ Tương Tráng
  • Phó Hoằng Liệt Trung Nghị
  • Đồ Hải Văn Tương
  • Ngụy Duệ Giới Văn Nghị
  • Ngụy Tượng Xu Mẫn Quả
  • Thang Bân Văn Chính
  • Cận Phụ Văn Tương
  • Căn Đặc Tương Tráng
  • Phó Tịch Tháp Thanh Đoan
  • Lý Chi Phương Văn Tương
  • Thi Lang Tương Tráng
  • Triệu Lương Đống Trung Tương
  • A Lan Thái Văn Thanh
  • Tôn Tư Khắc Tương Vũ
  • Vu Thành Long Tương Cần
  • Phí Dương Cổ Tương Tráng
  • Vương Ho Văn Tĩnh
  • Lệ Đỗ Nột Văn Khác
  • Y Tang A Văn Đoan
  • Ngô Điển Văn Đoan
  • Trương Anh Văn Đoan
  • Cố Bát Đại Văn Đoan
  • Hùng Tứ Lý Văn Đoan
  • Phú Thiện Cung Ý
  • Trương Ngọc Thư Văn Trinh
  • Từ Triều Văn Kính
  • Lý Quang Địa Văn Trinh
  • Trần Tân Thanh Đoan
  • Phùng Quốc Tương Hoàn Hi
  • Mã Nhĩ Hán Cung Cần
  • Triệu Thân Kiều Cung Nghị
  • A Lạt Nạp Hi Khác
  • Trương Bằng Cách Văn Đoan
  • Dương Tông Nhân Thanh Đoan
  • Cao Kỳ Vị Văn Khác
  • Doãn Đức Khác Kính
  • Điền Tòng Điển Văn Đoan
  • Phú Ninh An Văn Cung
  • Tề Tô Lặc Cần Khác
  • Thái Thế Viễn Văn Cần
  • Dương Thanh Thời Văn Định
  • Chu Thức Văn Đoan
  • Lý Vệ Mẫn Đạt
  • Mã Tề Văn Mục
  • Từ Sĩ Lâm
  • Từ Nguyên Mộng Văn Định
  • Ngạc Nhĩ Thái Văn Đoan
  • Từ Bản Văn Mục
  • Na Tô Đồ Khác Cần
  • Lạp Bố Đôn Tráng Quả
  • Phó Thanh Tương Liệt
  • Trần Đại Thụ Văn Túc
  • Phan Tư Củ Mẫn Huệ
  • Cao Bân Văn Định
  • Phúc Mẫn Văn Đoan
  • Hòa Khởi Vũ Liệt
  • Khách Nhĩ Cát Thiện Trang Khác
  • Hạc Niên Văn Cần
  • Uông Do Đôn Văn Đoan
  • Hoàng Đình Quế Văn Tương
  • Tương Phổ Văn Khác
  • Lý Nguyên Lượng Cần Khác
  • Sử Di Trực Văn Tĩnh
  • Ngạc Bật Cần Túc
  • Lương Thi Chính Văn Trang
  • Lai Bảo Văn Đoan
  • Triệu Huệ Văn Tương
  • Phương Quang Thừa Khác Mẫn
  • Đổng Ban Đạt Văn Khác
  • Trầm Đức Tiềm Văn Khác
  • A Lý Cổn Tương Tráng
  • Phó Hằng Văn Trung
  • Doãn Kế Thiện Văn Đoan
  • Trần Hoành Mưu Văn Cung
  • Ngô Đạt Thiện Cần Nghị
  • Lưu Huân Văn Định
  • Lưu Thống Huân Văn Chính
  • Tiễn Trần Quần Văn Đoan
  • Hà Vị Cung Huệ
  • Phụng Khoan Văn Cần
  • Thư Hách Đức Văn Tương
  • Cao Tấn Văn Đoan
  • Cổ Mẫn Trung Văn Tương
  • Lý Hồ Cung Nghị
  • Viên Thủ Đồng Thanh Khác
  • Anh Liêm Văn Túc
  • Y Lặc Đồ Tương Vũ
  • Hứa Thế Hanh Chiêu Nghị
  • Tát Tái Thành Khác
  • Khuê Lâm Vũ Nghị
  • Phúc Khang An Văn Tương
  • Hòa Lâm Trung Tráng
  • A Quế Văn Thành
  • Lưu Huân Văn Định
  • Ngạc Huy Khác Tĩnh
  • Kim Sĩ Tùng Văn Giản
  • Bành Nguyên Thụy Văn Cần
  • Lưu Dung Văn Thanh
  • Vương Kiệt Văn Đoan
  • Chu Khuê Văn Chính
  • Đới Cù Hanh Văn Đoan
  • Đổng Cáo Văn Cung
  • Minh Lượng Văn Tương
  • Lê Thế Tự Tương Cần
  • Uông Đình Trân Văn Đoan
  • Ngọc Lân Văn Cung
  • Phú Tuấn Văn Thành
  • Tào Chấn Dong Văn Chính
  • Văn Phu Văn Kính
  • Long Văn Đoan Nghị
  • Hoàng Việt Cần Mẫn
  • Vương Đỉnh Văn Khác
  • Trần Quan Tuấn Văn Khác
  • Đỗ Thụ Điền Văn Chính
  • Phan Thế Ân Văn Cung
  • Văn Khánh Văn Đoan
  • Dụ Thành Văn Đoan
  • Đỗ Ngạc Văn Đoan
  • Hồ Lâm Dực Văn Trung
  • Quế Lương Văn Đoan
  • Trầm Triệu Lâm Văn Trung
  • Ông Tâm Tồn Văn Đoan
  • Kỳ Tuấn Tảo Văn Đoan
  • Thụy Thường Văn Đoan
  • Thụy Lân Văn Trang
  • Cổ Trinh Văn Đoan
  • Văn Tường Văn Trung
  • Anh Quế Văn Cần
  • Trầm Bảo Trinh Văn Túc
  • Trầm Quế Phân Văn Định
  • Toàn Khánh Văn Khác
  • Tái Linh Văn Khác
  • Tả Tông Đường Văn Tương
  • Linh Quế Văn Cung
  • Đinh Bảo Trinh Văn Thành
  • Sầm Dục Anh Tương Cần
  • Tăng Quốc Thuyên Trung Tương
  • Trương Diệu Cần Quả
  • Bảo Vân Văn Tĩnh
  • Ân Thừa Văn Thận
  • Phúc Côn Văn Thận
  • Trương Chi Vạn Văn Đạt
  • Lý Hồng Tảo Văn Chính
  • Lân Thư Văn Thận
  • Ngạch Lặc Hòa Bố Văn Cung
  • Lý Hồng Chương Văn Trung
  • Tống Khánh Trung Cần
  • Lưu Khôn Nhất Trung Thành
  • Vinh Lộc Văn Trung
  • Trường Thuận Trung Tĩnh
  • Dụ Đức Văn Thận
  • Côn Cương Văn Đạt
  • Sùng Lễ Văn Khác
  • Kính Tín Văn Khác
  • Trương Chi Động Văn Tương
  • Tôn Gia Nãi Văn Chính
  • Đới Hồng Từ Văn Thành
  • Lộc Truyện Lâm Văn Đoan
∗ Sau vì án kiện mà bị trục xuất khỏi Hiền Lương từ